
Hướng Dẫn Trình Pháp
Hòa Thượng Thiền Sư U Pandita
Mặc dầu đã được chỉ dẫn để hành thiền nhưng vẫn có những thiền sinh không thể thực tập đúng cũng như trình bày một cách chính xác kinh nghiệm của mình lên thiền sư trong các buổi trình pháp. Một số thiền sinh hành thiền rất tốt đẹp nhưng không biết diễn tả rõ ràng cách mình thực tập cũng như kinh nghiệm đạt được. Bài giảng này nhằm mục đích giúp những thiền sinh đó tường trình đúng đắn và rõ ràng cách hành thiền của mình bao gồm các đối tượng theo dõi và kinh nghiệm đạt được trong khi thực tập.
Về cách thức hành thiền, Hòa Thượng Thiền Sư Mahasi Sayadaw đã chỉ dẫn cặn kẽ về pháp hành Thiền Niệm Xứ Minh Sát bắt đầu với sự ghi nhận hay chánh niệm theo dõi đề mục chính là sự phồng xẹp của bụng khi thở.
Theo sự giải thích trong Kinh, các hiện tượng tâm-vật-lý luôn luôn đến với thiền sinh qua sáu cửa giác quan. Khi thấy cảnh, mắt và cảnh được thấy là hiện tượng vật chất hay sắc pháp trong khi tâm thấy hay nhãn thức nhận biết cảnh là hiện tượng tâm hay danh pháp. Đối với kinh nghiệm về âm thanh, mùi, vị, sự xúc chạm và nhiều cử động của cơ thể như là co, duỗi, hay xoay chuyển thân hình và bước đi cũng tương tự như vậy. Ngài thiền sư đã chỉ dạy là tất cả những gì xảy ra phải được ghi nhận một cách chặt chẽ ngay trong khi chúng đang xảy ra mà không bỏ qua gì hết kể cả những điều không mấy quan trọng.
Mặc dầu sự chỉ dẫn rõ ràng của thiền sư Mahasi Sayadaw được diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản như vậy, thiền sinh vẫn gặp một số khó khăn khi đem áp dụng vào sự thực tập. Để giúp thiền sinh vượt qua những khó khăn đó, các thiền sư tại thiền viện này đã giải thích và diễn tả cho các thiền sinh sơ cơ cách ghi nhận và theo dõi đề mục chính của sự hành thiền là sự phồng xẹp của bụng và những đề mục phụ như tư tưởng, suy niệm, cảm thọ, yếu tố bên ngoài như hình ảnh, tiếng động ảnh hưởng đến tâm.
Dù sự giải thích này được lặp đi lặp lại một cách dễ hiểu cho các thiền sinh nhưng một số đã không nắm vững để áp dụng vào sự thực tập một cách thích nghi. Do đó, để cho sự thực tập được dễ dàng hơn nữa, các thiền sư đã đặt ra các câu châm ngôn dễ nhớ sau đây:
1. Câu châm ngôn đầu tiên là: Cho biết bạn ghi nhận đề mục chính như thế nào và tâm đã kinh nghiệm điều gì.
Có hai hoạt động liên hệ đến pháp hành này. Thứ nhất là sự ghi nhận đề mục hành thiền hay đối tượng của sự chú tâm. Thứ hai là tâm ghi nhận đề mục liên hệ đến đối tượng thiền được theo dõi. Chỉ với hai hoạt động này mà thiền sinh sẽ có thể nói về đề mục và kinh nghiệm thiền của mình.
a. Đề mục chính mà tâm theo dõi chặt chẽ trong khi ngồi thiền là sự phồng xẹp của bụng khi thiền sinh thở.
Đề mục chính theo ý nghĩa là trong trường hợp không có bất cứ đối tượng chú tâm nổi bật nào khác sanh khởi, thiền sinh nên theo dõi đề mục này. Trong trường hợp có đề mục phụ nổi bật, tâm nên theo dõi đề mục phụ này. Khi đề mục phụ được ghi nhận biến mất, thiền sinh nên trở về theo dõi lại đề mục chính.
Về chuyển động phồng của bụng, khi thiền sinh thở vào, bụng bắt đầu phồng hơi nhanh và tiếp tục phồng khi thiền sinh tiếp tục hít vào. Khi thiền sinh ngừng thở, chuyển động phồng chấm dứt. Thiền sinh nên có khả năng diễn tả được cách theo dõi hay ghi nhận chuyển động này của bụng từ lúc bắt đầu cho đến lúc cuối.
Khi theo dõi hay ghi nhận chuyển động phồng của bụng, toàn thể chuyển động phải được kinh nghiệm và biết rõ ràng. Điều dạy này có nghĩa là tất cả các hiện tượng vật chất liên hệ đến toàn thể chuyển động phồng của bụng – giai đoạn đầu, giai đoan giữa và giai đoạn cuối – nên được ghi nhận càng liên tục càng tốt.
Tâm ghi nhận hoặc theo dõi nên trụ trên đề mục và diễn tiến đồng thời với sự chuyển động của bụng phồng qua ba giai đoạn đầu, giữa và cuối. Thiền sinh sơ cơ dĩ nhiên không thể nào ghi nhận tất cả ba giai đoạn của sự chuyển động nhưng nên cố gắng để có thể làm được như vậy. Thiền sinh được yêu cầu nỗ lực như thế vì sợ rằng nếu hành thiền đại khái sẽ không có được nhiều lợi lạc vào cuối khóa thiền cũng như để đảm bảo có được sự định tâm đầy đủ và nghiêm chỉnh trên đề mục trong lúc thực tập.
Thiền sinh chỉ có thể trình bày kinh nghiệm thiền tập rõ ràng nếu có:
-
Khả năng ghi nhận đề mục với sự chú tâm đầy đủ;
-
Sự diễn biến đồng thời giữa đề mục và tâm ghi nhận;
-
Sự ghi nhận chuyển động qua các giai đoạn kế tiếp nhau.
b. Nếu ghi nhận được đề mục một cách thích nghi, thiền sinh ‘thấy’ và kinh nghiệm điều gì?
Thiền sinh nên tường trình chính xác kinh nghiệm ghi nhận đối tượng của sự thực tập. Ở đây, thiền sinh phải nói được là tâm theo dõi có diễn tiến cùng lúc với sự phồng của bụng hay không. Nếu cả hai đồng thời, thiền sinh ‘thấy’ gì? Có phải ‘thấy’ bụng, cách phồng, hay sự căng cứng và chuyển động liên hệ đến sự phồng của bụng.
Có ba khía cạnh của bụng phồng:
-
Hình dạng
-
Tư thế
-
Đặc tánh
Hình dạng là hình thể của bụng mà tâm thiền sinh tập trung vào. Toàn cơ thể thiền sinh là hình dạng của cơ thể. Bụng là một phần của cơ thể, nó cũng là hình dạng của bụng phồng.
Tư thế là điều kiện hay trạng thái của bụng tại bất cứ thời điểm nào. Như vậy, bụng đang ở trạng thái bằng phẳng, phồng, hay xẹp? Theo thuật ngữ kinh điển Pali, điều kiện hay trạng thái này được gọi là tư thế (akara). Chẳng hạn, bàn tay nắm lại hay mở ra? Thân đang ở tư thế đứng, đi, ngồi hay nằm?
Nếu thiền sinh tiếp tục theo dõi bụng trong khi hành thiền, người đó sẽ ‘thấy’ hình dạng hay tư thế trước khi ‘thấy’ đặc tánh. Nhưng thấy hình dạng và tư thế chưa phải là Tuệ Minh Sát. Thiền sinh phải ‘thấy’ vượt qua hình dạng và tư thế có nghĩa là kinh nghiệm sự căng cứng hay chuyển động của bụng phồng. Nếu thiền sinh theo dõi hết mình thời sẽ ‘thấy’ được đặc tánh. Thiền sinh phải có khả năng trình bày điều này trong buổi trình pháp. Nhưng thiền sinh phải tường trình căn cứ trên sự ‘thấy’ thực sự chứ không phải nghĩ là mình ‘thấy’ như vậy. Sự trình pháp phải được dựa trên kinh nghiệm minh sát của chính mình.
Một cách tương tự, thiền sinh phải có khả năng theo dõi, kinh nghiệm và tường trình về sự xẹp của bụng khi thở ra.
Đối với thiền hành cũng như vậy. Khi dở chân, thiền sinh có khả năng theo dõi diễn tiến của sự dở chân từ đầu cho đến cuối không? Nếu có, người đó ‘thấy’ gì? Có phải ‘thấy’ hình dạng của chân hay vị thế của chân dở lên, hoặc cảm thấy đặc tính như chân trở nên nhẹ và nhấc lên, hay ’thấy’ chân trở nên căng và bị đẩy về phía trước?
Thiền sinh phải tập trung mới có khả năng tường trình về bất cứ khía cạnh nào trong ba khía cạnh này của đề mục. Khi đưa chân đến trước trong lúc đi kinh hành, có phải tâm thiền sinh theo dõi hay ghi nhận một cách đồng thời với sự di chuyển của bước chân? Ở đây cũng vậy, thiền sinh thấy gì? Có phải người đó ‘thấy’ hình dạng bàn chân, hay tư thế bàn chân đưa tới, hoặc đặc tính của chuyển động như là bàn chân đang được đẩy từ phía sau hay kéo từ phía trước? Tương tự, khi bỏ chân xuống, người đó có khả năng ghi nhận chuyển động đưa xuống từ lúc đầu cho đến lúc cuối khi bàn chân đụng sàn nhà hay mặt đất không? Nếu có, người đó đã nhận biết được gì? Có phải người đó biết hình dạng bàn chân, tư thế bàn chân để xuống, hay vài đặc tính của chuyển động như là chân trở nên nhẹ và mềm?
Đối với sự ghi nhận các đối tượng khác như là co duỗi tay chân, xoay chuyển cơ thể, tư thế ngồi hay tư thế đứng cũng tương tự như vậy. Thiền sinh có khả năng ghi nhận một cách đồng thời các hiện tượng từ đầu cho đến cuối hay không? Thiền sinh chỉ nên giới hạn sự trình pháp của mình vào đề mục đang theo dõi theo ba khía cạnh được đề cập ở trên và không nói đến những sự xảy ra ngẫu nhiên hay bất ngờ khác. Điều này rất quan trọng.
Thiền sinh nên hiểu rõ ba đặc tánh của các hiện tượng tâm-vật lý sau đây:
-
Đặc tính riêng (sabhaya lakkhana)
-
Đặc tính điều kiện (sankhata lakkhana)
-
Đặc tính chung (samana lakkhana)
Đặc tính riêng: Đây là những dấu hiệu hay đặc tính riêng biệt của các hiện tượng tâm hay vật lý. Ví dụ: sự cứng hay mềm là dấu hiệu hay đặc tính riêng của xương hay thịt. Dấu hiệu hay đặc tính này chỉ có ở yếu tố đất hay địa đại chứ không có ở những đại khác khác như thủy đại (yếu tố nước), hỏa đại (yếu tố lửa) và phong đại (yếu tố gió). Hỏa đại là nóng và lạnh, thủy đại là dính chặt hay trôi chảy, và phong đại là chuyển động. Các đại này đều là đặc tính riêng của các hiện tượng vật chất.
Dấu hiệu hay đặc tính riêng của tâm là khả năng nhận biết. Đặc tính riêng của xúc là tô màu cho tâm và làm tâm tiếp xúc với hiện tượng. Đặc tính riêng của cảm thọ là khả năng cảm nhận.
Đặc tính điều kiện: Mỗi một đặc tính riêng của các hiện tượng tâm-vật lý đều có khởi đầu, kéo dài và chấm dứt. Theo ngôn ngữ kinh điển Pali, đây là sanh (uppada), trụ (thiti), và diệt (bhanga). Sinh có nghĩa là sự bắt đầu hay sanh khởi của hiện tượng. Trụ là sự kéo dài hay diễn tiến cho đến khi hoại diệt. Diệt là sự tan vỡ hay biến mất. Ba đặc tính này thuộc đặc tính điều kiện.
Đặc tính chung: Đặc tính thứ ba của các hiện tượng tâm-vật-lý là đặc tánh phổ quát. Sự vô thường (annicca lakkhana), khổ hay bất toại nguyện (dukkha lakkhana) và vô ngã (anatta lakkhana) của tất cả các pháp điều kiện hay hữu vi tạo nên đặc tánh này.
Theo ngôn ngữ kinh điển Pāḷi, ba dấu hiệu vô thường, khổ, và vô ngã là các đặc tính chung cho tất cả các hiện tượng tâm và vật lý. Do đó, chúng được gọi là các đặc tính phổ quát.
Để tóm tắt, chúng ta phải hiểu ba đặc tính được đề cập và giải thích ở trên. Đó là đặc tính riêng, đặc tính điều kiện và đặc tính chung.
Trong ba đặc tính này, thiền tập trước tiên hướng đến việc kinh nghiệm đặc tính riêng của các hiện tượng tâm và vật lý mà chúng ta đang ghi nhận. Làm thế nào mà do nỗ lực thiền tập chúng ta kinh nghiệm được các đặc tánh riêng của các hiện tượng? Chúng ta nên ghi nhận các hiện tượng ngay lúc chúng vừa sanh khởi. Chỉ khi nào làm được như thế, chúng ta mới có thể thực chứng được đặc tính riêng của chúng chứ không có cách nào khác.
Khi thiền sinh thở vào, bụng phồng lên. Trước khi thở vào không có sự phồng của bụng. Tâm của thiền sinh nên theo dõi chuyển động phồng của bụng từ lúc đầu cho đến lúc cuối. Chỉ khi đó thiền sinh mới có thể ‘thấy’ bản chất thật sự của chuyển động. Bản chất thật sự này là gì? Với sự thở vào, gió đi vào, Và gió là gì? Đó là yếu tố căng phồng, yếu tố chuyển động. Chính bản chất thực sự này của sự phồng mà thiền sinh tập để ‘thấy’. Thiền sinh chỉ ‘thấy’ nó khi ghi nhận chuyển động ngay từ lúc sanh khởi và kéo dài cho đến khi chấm dứt. Nếu không theo dõi hay ghi nhận như vậy, thiền sinh sẽ không thấy ngay cả hình dạng hay vị thế đừng nói chi đến đặc tánh thực sự của hiện tượng.
Tiếp tục chú tâm một cách tập trung và đồng thời vào đối tượng thiền tập phồng xẹp của bụng trong khi thở, thiền sinh sẽ lần hồi củng cố được sự định tâm của mình. Khi sự định tâm vững mạnh, thiền sinh không còn thấy hình dạng hay tư thế của bụng phồng hay xẹp. Sự hiểu biết hay tuệ giác vượt ra ngoài những cái ‘thấy’ này và sẽ cho phép thiền sinh ‘thấy’ sự căng phồng, áp lực và chuyển động liên hệ đến sự phồng xẹp của bụng mà thiền sinh đang theo dõi hay ghi nhận. Khi thở ra, thiền sinh sẽ cảm thấy sự căng phồng bớt đi và chuyển động xẹp của bụng kết thúc vào cuối hơi thở ra.
Thiền sinh cũng sẽ kinh nghiệm tương tự với những cử động trong lúc kinh hành bao gồm dở chân, bước tới, và để chân xuống sàn nhà hay mặt đất.
Sự chỉ dẫn cũng tương tự đối với những cử động khác của cơ thể, cảm thọ nơi thân, và tư tưởng sanh khởi nơi tâm. Tất cả những đối tượng này đều nên được ghi nhận ngay khi chúng vừa sanh khởi để bảo đảm cho việc kinh nghiệm thực tánh của chúng.
Thiền sư sẽ không nói cho thiền sinh biết là họ sẽ thấy gì nhưng sẽ chỉ dẫn cách thức theo dõi hay ghi nhận. Tương tự như làm toán ở trường, thầy giáo sẽ không cho biết đáp số nhưng chỉ dạy cách làm toán mà thôi.
Chúng ta đã bàn về câu châm ngôn thứ nhất là khi hiện tượng được ghi nhận ngay lúc chúng vừa sanh khởi, thực tánh sẽ hiển lộ.
2. Câu châm ngôn thứ hai dạy “chỉ khi nào thực tánh được hiển lộ, đặc tánh điều kiện mới được kinh nghiệm nghĩa là thấy được hiện tượng ghi nhận đang sanh khởi, kéo dài và chấm dứt.”
3. Câu châm ngôn thứ ba là “chỉ khi đặc tánh điều kiện trở nên rõ ràng, đặc tánh phổ quát mới được kinh nghiệm.”
Khi đặc tánh điều kiện được kinh nghiệm, đặc tính chung hay phổ quát sẽ xuất hiện. Hai đặc tính điều kiện và phổ quát sẽ không thể nào không hiển lộ một khi đặc tính riêng được thấy rõ nhờ sự ghi nhận tập trung và đồng thời vào đề mục thiền. Khi đặc tính chung xuất hiện, nó sẽ phô bày bản chất vô thường, khổ và vô ngã của hiện tượng.
4. Châm ngôn trên được theo sau bởi châm ngôn thứ tư như sau: “Khi đặc tánh tổng quát được kinh nghiệm, Tuệ Minh Sát hiển lộ.”
Sau khi xuất hiện, Tuệ Minh Sát từ từ chín muồi và sẽ được theo sau bởi Đạo Tuệ và Quả Tuệ cho phép thiền sinh kinh nghiệm Niết Bàn với sự dừng nghỉ của các hiện tượng danh sắc là phiền não.
Thiết tưởng nên nhắc lại trong khi trình pháp, thiền sinh nên trình bày những gì mình thực sự ‘thấy’ chứ không phải nghĩ là mình ‘thấy’. Chỉ có những gì thực sự chứng nghiệm mới là trí tuệ của mình chứ không phải những gì mình nghĩ mình có vì đó tối đa cũng chỉ là những kiến thức vay mượn không phù hợp với thực tánh hay đặc tính của hiện tượng đang được ghi nhận.
5. Câu châm ngôn kế đến là “tất cả tư tưởng được theo dõi và kinh nghiệm nên được tường trình.”
Trong khi đang ngồi thiền ghi nhận đề mục chính là sự phồng xẹp của bụng, những tư tưởng có thể sanh khởi. Đó là bản chất của tâm khó mà kiểm soát được. Tâm có khuynh hướng phóng đi, rời bỏ đề mục chính và suy nghĩ. Lúc đó, thiền sinh nên làm gì? Hãy ghi nhận bất cứ những gì sanh khởi đến tâm. Bạn có thể làm được như vậy không? Bạn nên cố gắng làm như thế. Nếu làm được, sự suy nghĩ sẽ tiếp tục, ngừng lại hay biến mất hết? Sự chú tâm của bạn có trở về với đề mục chính không? Bạn nên tường trình những gì xảy ra theo những khía cạnh này.
6. “Tất cả những cảm thọ nên được theo dõi, hiểu rõ và tường trình trong buổi trình pháp.”
Đối với thiền sinh sơ cơ, cảm thọ chưa sanh khởi trong khi đang chú tâm theo dõi đề mục chính là sự phồng xẹp của bụng. Tuy nhiên, tư tưởng chắc chắn sẽ sanh khởi. Lúc đó thiền sinh sơ cơ chưa có khả năng ghi nhận tất cả những tư tưởng sanh lên. Để giảm thiểu những tư tưởng phóng tâm này, thiền sinh sơ cơ nên tập trung sự chú tâm vào đề mục chính càng chặt chẽ càng tốt.
Nhưng khi đã ngồi thiền được một thời gian năm, mười hay mười lăm phút, một số cảm giác không thoải mái sanh khởi nơi thân khiến tâm khó chịu. Khi cảm thọ hay cảm xúc sanh khởi, chúng nên được ghi nhận. Khi trình pháp, nên trình bày bằng ngôn ngữ thường ngày như là ‘ngứa’, ‘đau’, ‘tê’, hay ‘nhức’…thay vì dùng ngôn ngữ của kinh điển như ‘cảm thọ’. Những cảm thọ này nên được ghi nhận cho dù chúng gia tăng cường độ hay yếu đi, ổn cố hoặc biến mất.
7. “Tất cả những hiện tượng khác xảy ra và nổi bật nên được ghi nhận và kinh nghiệm.”
Những hiện tượng khác nổi bật được ghi nhận và kinh nghiệm là gì? Đó là hình sắc được thấy, âm thanh được nghe, mùi được ngửi, thức ăn được nếm và những hiện tượng tâm lý như thích, không thích, hôn trầm, phóng tâm, lo âu, hoài nghi, nhớ tưởng, tỉnh giác, chú tâm, hài lòng, thỏa thích, an bình, tĩnh lặng, thư thái…
Đức Phật chỉ chung chúng là đối tượng pháp. Chẳng hạn, sự thích sanh khởi và khi được ghi nhận, chuyện gì xảy ra? Thích được theo sau bởi tham ái. Thiền sinh có thể tường trình điều này. Lấy một ví dụ khác, thiền sinh bị hôn trầm và có tâm muội lược. Chuyện gì xảy ra nếu những điều này được ghi nhận khi chúng xuất hiện? Bất cứ lúc nào những đối tượng của tâm sanh khởi, chúng nên được ghi nhận.
Tóm lại, sau đây là bốn đối tượng chú tâm trong pháp hành Thiền Niệm Xứ Minh Sát:
-
Những cử động của thân (Thân)
-
Cảm thọ (Thọ)
-
Hoạt động của tâm (Tâm)
-
Đối tượng của tâm. (Pháp)
8. Cuối cùng, câu châm ngôn tổng quát là “Những gì sanh khởi được ghi nhận và kinh nghiệm nên được hiểu trọn vẹn và tường trình đầy đủ trong buổi trình pháp”.
Quan tâm của thiền sinh là theo dõi hay ghi nhận hiện tượng. Đối với bất cứ đề mục nào thuộc bốn loại đối tượng nêu trên, ba sự việc tuần tự xảy ra trong khi hành Thiền Minh Sát là:
-
Hiện tượng sanh khởi
-
Sự theo dõi hay ghi nhận hiện tượng sanh khởi
-
Thiền sinh biết và ‘thấy’ gì.
Tường Trình Kinh Nghiệm Thực Tập
Sự ghi nhận các hiện tượng thân tâm hay danh sắc xảy ra qua sáu cửa giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm trong khi thiền tập nên được tường trình đến thiền sư trong các buổi trình pháp theo thứ tự như sau:
-
Đề mục thiền: Trước hết, thiền sinh phải cho thiền sư biết đề mục thiền hay đối tượng quán sát trong sự hành thiền của mình. Điều này rất quan trọng để tránh trường hợp một số thiền sinh tuy đến tham dự khóa thiền Niệm Xứ Minh Sát tại Như Lai Thiền Viện nhưng lại hành theo các phương pháp khác. Trong trường hợp như vậy, các thiền sư của thiền viện sẽ không thể hướng dẫn thiền sinh thực tập cho tiến bộ được.
Theo truyền thống Mahasi, thiền sinh được chỉ dẫn bắt đầu việc ngồi thiền của mình bằng cách theo dõi chuyển động phồng xẹp của bụng. Đây là đề mục chính. Tuy nhiên, trong khi theo dõi đề mục chính như vậy, nếu có bất cứ hiện tượng nào khác sanh khởi nơi thân hay tâm nổi bật hơn đề mục chính ngay trong giây phút hiện tại, thiền sinh được chỉ dạy theo dõi các hiện tượng phụ này thay vì theo dõi đề mục chính ngay trong lúc đó. Khi hiện tượng được theo dõi hoại diệt hay không còn nổi bật nữa, thiền sinh trở về ghi nhận lại đề mục chính là chuyển động phồng xẹp của bụng. Các hiện tượng khác hơn chuyển động phồng xẹp của bụng đều được gọi là đề mục phụ.
-
Cách thức hành thiền: Thiền sinh nên cho thiền sư biết cách thức hành thiền của mình sau khi đã nói rõ về đề mục. Đó là sự quán sát hay theo dõi đề mục một cách song hành, chính xác và liên tục từ lúc đối tượng sanh khởi cho đến khi chấm dứt. Nếu không thực tập đúng như vậy, rất khó cho thiền sinh đạt tiến bộ trong sự hành thiền của mình. Thiền sinh có thể niệm thầm song song với sự ghi nhận diễn biến của đề mục nếu sự niệm thầm như vậy giúp thiền sinh ghi nhận đề mục dễ dàng hay ít phóng tâm hơn.
-
Kinh nghiệm thực tập: Kế tiếp thiền sinh cho thiền sư biết chuyện gì xảy ra khi mình theo dõi hay ghi nhận đề mục như vậy. Chẳng hạn, thiền sinh thấy hình dạng, tư thế, hay đặc tính bao gồm đặc tính riêng và đặc tính chung của đề mục. Thiền sinh nên thành thật, rõ ràng và chính xác trong sự trình bày kinh nghiệm của mình.
Vì thời gian trình pháp giới hạn, thiền sinh nên chọn kinh nghiệm thiền tập đáng kể nhất để tường trình cho thiền sư. Thiền sinh nên trình bày một cách ngắn gọn, rõ ràng và tương đối đầy đủ chi tiết. Căn cứ trên sự trình pháp chính xác của thiền sinh, thiền sư sẽ hướng dẫn thiền sinh thực tập một cách thích nghi để đạt được tiến bộ trong suốt khóa thiền.
Đề Mục Chính
Để bắt đầu, thiền sư muốn thiền sinh tường trình về đề mục chính là chuyển động phồng xẹp của bụng. Do đó, thiền sinh nên trình bày sự thực tập của mình theo thứ tự như được đề cập ở trên.
Ví dụ:
-
Con bắt đầu việc ngồi thiền bằng sự theo dõi chuyển động phồng và xẹp của bụng. (Đề mục)
-
Con theo dõi chuyển động một cách song hành, liên tục, và chính xác từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt. Con niệm thầm là” phồng, phồng” khi theo dõi chuyển động phồng và “xẹp, xẹp” khi theo dõi chuyển động xẹp. (Cách thức thực tập)
-
Khi theo dõi phồng, con thấy bụng căng, cứng…; con cảm thấy sức ép tăng lên từ từ. Khi theo dõi xẹp, con cảm thấy sức ép ở bụng giảm dần. (Kinh nghiệm)
Diễn tả đề mục chính bằng những danh từ rõ ràng, đơn giản và chính xác rất là quan trọng. Chỉ sau khi làm được như vậy mới sang phần trình bày về các đề mục phụ nổi bật.
Đề Mục Phụ
Đề mục phụ bao gồm nhưng không giới hạn vào những đối tượng dưới đây:
(a) Cảm giác nơi cơ thể: đau, ngứa, tê…
(b) Suy nghĩ: ý tưởng, dự định, nhớ, nghĩ, tưởng tượng…
(c) Cảm xúc: giận, sung sướng, vui, buồn…
(d) Hình ảnh, tiếng động…
Trong khi chánh niệm ghi nhận đề mục chính là chuyển động phồng xẹp của bụng, nếu bất cứ đề mục phụ nào sanh khởi nổi bật nhất (hơn cả đề mục chính) ngay trong giây phút hiện tại, thiền sinh nên hướng tâm đến và ghi nhận đề mục phụ này. Trong buổi trình pháp, sau khi tường trình về đề mục chính, thiền sinh trình bày kinh nghiệm của mình về đề mục phụ cũng theo thứ tự như trên.
Ví dụ:
-
Cảm giác nơi cơ thể trở nên nổi bật nhất:
-
Con thấy đau đầu gối hay cơn đau sanh khởi nơi đầu gối.
-
Con ghi nhận và niệm thầm là “đau, đau”.
-
Con thấy cơn đau như cắt biến ra thành một khối đau cứng.
-
Con chú tâm đến cơn đau cứng và niệm thầm là “cứng, cứng”.
-
Con kinh nghiệm cơn đau cứng giật chậm chậm và rồi thuyên giảm.
-
Và con trở về ghi nhận đề mục chính.
-
Suy nghĩ hay cảm xúc trở nên nổi bật nhất:
Khi trình bày suy nghĩ như ý tưởng, quan điểm, ký ức, dự tính, tưởng tượng, hồi tưởng, dự đoán, phán xét hoặc cảm xúc như giận, chán chường, sung sướng…, không nên đề cập đến nội dung như suy nghĩ về cái gì, ai làm mình giận…nhưng chỉ cho biết đã ghi nhận chúng như thế nào mà thôi.
(a) Con thấy mình suy nghĩ miên man.
(b) Con theo dõi và niệm thầm “suy nghĩ, suy nghĩ” (một cách tổng quát) hay “dự tính, dự tính”, “nhớ nghĩ, nhớ nghĩ”, “hồi tưởng, hồi tưởng” v.v. (một cách chi tiết).
(c) Con cảm thấy giận dữ.
(d) Con ghi nhận và niệm thầm “giận, giận”.
(e) Một lúc sau, con thấy cảm xúc này biến mất.
(f) Rồi con trở về ghi nhận đề mục chính là chuyển động phồng, xẹp của bụng.
Một Ví Dụ Khái Quát Về Trình Pháp
Đề mục thiền tập chính của con là sự chuyển động phồng xẹp của bụng. Con ghi nhận đề mục một cách song hành, liên tục và chính xác từ lúc đối tượng sanh khởi cho đến khi kết thúc. Con có niệm thầm “phồng, phồng” khi bụng phồng và kinh nghiệm sự căng, cứng và nặng. Con ghi nhận và niệm thầm “xẹp, xẹp” khi bụng xẹp và thấy sự theo dõi đề mục không được rõ ràng. Tâm lúc đó bị phóng, con liền ghi nhận tâm phóng và niệm thầm “phóng tâm, phóng tâm” và sau một lúc sự phóng tâm không còn nữa. Con liền trở về theo dõi đề mục chính là sự chuyển động phồng xẹp của bụng.
Và rồi một cơn đau sanh khởi và trở nên nổi bật, con liền ghi nhận và niệm thầm “đau, đau” nhưng nó tăng lên và bắt đầu đau thắt từng cơn liên tiếp như vậy. Con niệm “thắt, thắt” và cơn đau giảm rồi cuối cùng biến mất. Con trở về theo dõi sự chuyển động phồng xẹp của bụng.
Bỗng nhiên một tiếng động xảy ra, con ghi nhận và niệm thầm “nghe, nghe” nhưng ngay khi đó một cơn ngứa sanh khởi trên mặt. Con ghi nhận và niệm thầm “ngứa, ngứa”. Một lát sau, cơn ngứa chấm dứt và con trở về theo dõi đề mục chính là sự chuyển động phồng xẹp của bụng.
Lời Khuyên Thiền Sinh
-
Thiền sinh nên trình bày kinh nghiệm thiền tập của mình một cách thành thật. Sẽ không có ích lợi nếu trình bày những gì mà chính mình không kinh nghiệm.
-
Nên trình bày ngay vào kinh nghiệm thiền tập một cách ngắn gọn theo thứ tự nêu trên.
-
Sự niệm thầm đề mục phải thật sự song hành với sự ghi nhận đề mục đang diễn biến; nếu không, sự niệm thầm sẽ không giúp ích gì cả.
-
Nếu thiền sinh nỗ lực thực tập đúng với sự hướng dẫn của thiền sư và trình pháp như được chỉ dẫn ở trên, thiền sư sẽ có thể giúp thiền sinh phát triển được tuệ giác minh sát một cách thích nghi..


