top of page
IMG_4333_edited.jpg

Lợi Ích Thiền Hành
By Sayadaw U Silananda

Trong những khóa thiền, thiền sinh thực tập vun bồi chánh niệm theo bốn tư thế khác nhau.  Họ thực tập chú niệm khi đi, đứng, ngồi và nằm.  Họ phải duy trì chánh niệm mọi lúc dù ở bất cứ tư thế nào.  Tư thế căn bản của sự thực tập là ngồi xếp bằng.  Tuy nhiên, cơ thể con người không thể chịu được tư thế này trong nhiều giờ mà không thay đổi, vì vậy chúng ta đã xen kẽ thiền hành vào giữa những lần ngồi thiền. Vì thiền hành rất quan trọng, cho nên Sư muốn giải thích bản chất, tầm quan trọng và lợi ích của pháp hành này.

 

Sự thực tập thiền có thể so sánh với việc đun nước sôi.  Nếu quí vị muốn nấu nước sôi, quí vị bỏ nước vào ấm, đặt lên bếp và vặn lò.  Nếu sức nóng bị ngưng dù trong giây lát, nước sẽ không sôi mặc dầu lò được vặn trở lại sau đó.  Nếu người nấu cứ vặn rồi tắt lò như vậy mãi, nước chắc chắn sẽ không sôi được.  Tương tự như vậy, nếu có những khoảng cách trong những giây phút chánh niệm, thiền sinh sẽ không thể tạo được huân lực và như vậy không thể có được sự định tâm.  Đó là lý do tại sao thiền sinh trong các khóa thiền được chỉ dạy thực tập chánh niệm mọi lúc khi còn thức, từ giây phút thức dậy buổi sáng cho đến khi rơi vào giấc ngủ ban đêm.  Vì thế, thiền hành được kết hợp vào sự phát triển chánh niệm liên tục.

 

Thật là đáng tiếc khi Sư nghe có người chỉ trích thiền hành với lý do là sự thực tập như vậy không đem lại lợi ích hay kết quả tốt đẹp nào cả.  Tuy nhiên, chính Đức Phật là người dạy phương pháp thiền hành đầu tiên.  Trong Kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật dạy thiền hành đến hai lần.  Trong phần “tư thế”, Ngài dạy vị tỳ kheo biết “mình đang đi” trong khi đi, biết “mình đang đứng” trong khi đứng, biết “mình đang ngồi” trong khi ngồi, và biết “mình đang nằm” trong khi nằm.  Trong phần “Tỉnh Giác” Đức Phật dạy “Vị tỳ kheo tỉnh giác khi đi tới và đi lui.”  Tỉnh giác có nghĩa là sự hiểu biết đúng đắn những gì được theo dõi.  Để hiểu đúng đắn những gì được theo dõi, thiền sinh phải có sự định tâm và muốn có sự định tâm thiền sinh phải có chánh niệm.  Do đó, khi Đức Phật dạy, “Này chư tỳ kheo, hãy tỉnh giác”, chúng ta phải hiểu rằng không phải chỉ có sự tỉnh giác mà còn có chánh niệm và sự định tâm nữa.  Như vậy Đức Phật dạy những người hành thiền nên áp dụng chánh niệm, định tâm, và tỉnh giác khi đi tức là trong khi “đi tới đi lui.”  Vì vậy, thiền hành là một phần quan trọng của sự hành thiền.

 

Mặc dầu trong bài kinh Đại Niệm Xứ Đức Phật đã không đi vào chi tiết về thiền hành nhưng chúng ta tin rằng Ngài đã chỉ dạy pháp này vào một lúc nào đó và sự hướng dẫn như vậy phải được các đệ tử của Ngài học hỏi và truyền dạy lại qua bao thế hệ kế tiếp nhau.  Hơn nữa, các bậc thầy xa xưa cũng đã có những công thức chỉ dẫn căn cứ trên sự thực tập của mình.  Hiện nay, chúng ta có những sự chỉ dạy rất chi tiết về pháp thiền hành.

 

Bây giờ chúng ta hãy nói một cách chi tiết về thiền hành.  Nếu quí vị hoàn toàn là một thiền sinh sơ cơ, thiền sư có lẽ dạy quí vị hãy chú tâm mỗi một việc trong lúc thiền hành.  Đó là chú niệm động tác bước đi trong khi trong tâm thầm ghi nhận “bước, bước, buớc” hay “trái, phải, trái, phải.”  Quí vị có thể đi chậm hơn là bình thường trong khi thiền hành.

 

Sau vài giờ hay sau một hai ngày thực tập, quí vị có thể được chỉ dạy chú niệm hai việc là dở chân lên và để chân xuống trong khi tâm ghi nhận “bước, đạp; bước, đạp”.  Quí vị phải nỗ lực ghi nhận hai giai đoạn của bước chân như “bước, đạp; bước đạp”.  Về sau, quí vị có thể được chỉ dạy theo dõi ba giai đoạn như dở chân, bước tới, và đặt chân xuống.  Hay sau đó nữa quí vị sẽ được dạy theo dõi bốn giai đoạn như dở chân, bước tới, đặt chân xuống và ấn bàn chân trên mặt đất.  Quí vị được chỉ dạy phải chánh niệm hoàn toàn và ghi nhận bốn giai đoạn này trong chuyển động của bàn chân: “dở, bước, đặt, nhấn”.

 

Thoạt tiên, thiền sinh thấy rất là khó khăn để đi chậm lại nhưng họ được chỉ dạy phải theo dõi chặt chẽ tất cả những động tác của việc thiền hành.  Khi thiền sinh thật sự chú tâm kỹ càng hơn, tự động họ sẽ đi chậm trở lại.  Họ không cần phải chủ ý đi chậm bởi vì sự chú tâm chặt chẽ khiến sự đi chậm đến một cách tự động.  Ví dụ, khi lái xe trên xa lộ, quí vị có thể chạy với tốc độ 60, 70 hay 80 dặm một giờ.  Với tốc độ đó, quí vị có thể không đọc được những bảng hiệu trên đường.  Nếu muốn đọc được những bảng hiệu, quí vị cần phải lái chậm lại.  Không ai nói “chạy chậm lại” hết nhưng người lái xe tự động lái chậm để có thể đọc được những bảng hiệu.  Tương tự như vậy, thiền sinh muốn theo dõi chặt chẽ các động tác dở, bước, đặt, nhấn, họ sẽ tự động đi chậm lại.  Chỉ khi đi chậm lại, họ mới có thể thật sự chánh niệm và hoàn toàn theo dõi được những chuyển động này.

 

Mặc dầu thiền sinh theo dõi chặt chẽ và đi chậm lại, họ có thể sẽ không thấy hết được những chuyển động và các giai đoạn một cách rõ ràng.  Các giai đọan chưa được phân biệt rõ ràng trong tâm và hình như tạo nên một chuyển động liên tục.  Khi sự định tâm trở nên mạnh mẽ, thiền sinh sẽ theo dõi được rõ ràng những giai đoạn khác nhau trong một bước chân hay ít ra thấy bốn giai đoạn dễ dàng hơn.  Thiền sinh sẽ phân biệt được giai đọan dở mà không lẫn lộn với giai đoạn bước, và biết rõ giai đọan bước không lẫn lộn với giai đọan dở lên hay đặt chân xuống.  Họ sẽ hiểu các động tác một cách rõ ràng và biện biệt.  Bất cứ những gì họ chánh niệm và ghi nhận sẽ trở nên rõ ràng trong tâm của họ.

 

Trong khi thiền sinh tiếp tục thực tập, họ sẽ ghi nhận nhiều hơn nữa.  Khi dở bàn chân lên, họ sẽ kinh nghiệm sự nhẹ nhàng của bàn chân.  Khi đưa chân tới trước, họ sẽ ghi nhận sự chuyển động từ nơi này đến nơi khác.  Khi để chân xuống, họ sẽ cảm thấy bàn chân trở nên nặng hơn.  Khi đặt bàn chân trên mặt đất, họ sẽ cảm thấy sự đụng chạm của gót chân với mặt đất.  Vì vậy cùng với sự theo dõi dở, bước, đặt, nhấn, thiền sinh sẽ kinh nghiệm sự nhẹ nhàng của bàn chân dở lên, chuyển động của bàn chân, sự nặng nề của bàn chân đưa xuống, và cảm giác cứng hay mềm của bàn chân chạm trên mặt đất.  Khi thiền sinh nhận ra những điều này, họ thật sự kinh nghiệm bốn yếu tố cơ bản hay tứ đại.  Đó là địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại hay đất, nước, gió, lửa.  Bằng cách theo dõi chặt chẽ bốn giai đoạn của thiền hành, tứ đại được kinh nghiệm đúng với bản chất thực sự của chúng, không chỉ là ý niệm nhưng như là diễn trình thực sự, thực tại tuyệt đối hay chân đế.

 

Chúng ta hãy đi vào chi tiết hơn về đặc tính của các đại trong thiền hành.  Trong động tác đầu tiên là dở chân, thiền sinh nhận ra sự nhẹ nhàng.  Khi nhận biết sự nhẹ nhàng như vậy, thiền sinh kinh nghiệm hỏa đại.  Một đặc tánh của hỏa đại là nó làm mọi thứ nhẹ hơn và khi nhẹ hơn chúng đưa lên.  Khi cảm nhận sự nhẹ nhàng của động tác dở bàn chân, thiền sinh nhận ra được bản chất của hỏa đại.  Nhưng trong động tác dở bàn chân, ngoài sự nhẹ nhàng cũng còn có sự chuyển động.  Chuyển động là đặc tính của phong đại.  Nhưng sự nhẹ nhàng hay hỏa đại trội hơn cho nên chúng ta có thể nói rằng trong giai đoạn dở chân, hỏa đại là chính và phong đại là phụ.  Hai đại này được thiền sinh nhận biết khi chú tâm theo dõi sự dở bàn chân.

 

Giai đoạn kế tiếp là đưa bàn chân tới trước.  Trong sự đẩy chân đến trước, yếu tố vượt trội là phong đại bởi vì chuyển động là một trong những đặc tính chính yếu của phong đại.  Do đó, khi thiền sinh theo dõi chặt chẽ động tác đưa tới của bàn chân khi thiền hành, thiền sinh hầu như nhận ra đặc tánh của phong đại.

 

Giai đoạn kế đến là động tác đưa bàn chân xuống.  Khi thiền sinh làm như vậy, có sự nặng nề nơi bàn chân.  Sự nặng nề là đặc tính của thủy đại cùng với sự trôi chảy và dính chặt.  Khi nước nặng, nó quyện lại.  Do đó, khi thiền sinh nhận ra sự nặng nề nơi bàn chân, họ hầu như nhận biết thủy đại.

 

Khi nhấn bàn chân xuống mặt đất, thiền sinh nhận ra sự cứng hay mềm của bàn chân trên mặt đất.  Điều này liên hệ đến đặc tính của địa đại.  Bằng cách theo dõi chặt chẽ của việc nhấn chân trên mặt đất, thiền sinh kinh nghiệm bản chất của địa đại.

 

Như vậy chỉ trong một bước chân, thiền sinh có thể thấy nhiều diễn trình.  Họ có thể thấy tứ đại và bản chất của tứ đại.  Chỉ những người hành thiền mới hy vọng kinh nghiệm được những điều này.

 

Khi thiền sinh tiếp tục thiền hành, họ sẽ nhận ra rằng cứ mỗi chuyển động cũng có tâm ghi nhận theo dõi chuyển động đó.  Có cử động dở chân và cũng có tâm ghi nhận sự dở chân.  Khoảnh khắc kế đến là sự đưa chân tới trước và cũng có tâm ghi nhận sự bước tới này.  Thêm vào đó, thiền sinh sẽ nhận thức được rằng cả hai cử động và tâm ghi nhận  sanh khởi và hoại diệt ngay trong khoảnh khắc đó.    Rồi khoảnh khắc tiếp theo là động tác để chân xuống và cũng có tâm ghi nhận sự để xuống này và cả hai cử động để chân xuống và tâm ghi nhận sanh khởi và hoại diệt ngay trong khoảnh khắc để chân xuống.  Tương tự như vậy đối với diễn trình của sự nhấn bàn chân.  Đó là động tác nhấn và tâm theo dõi động tác này.    Do đó, thiền sinh sẽ thấy rằng cùng với chuyển động của bàn chân, có những khoảnh khắc của tâm ghi nhận.  Những khoảnh khắc ghi nhận này được gọi là Danh (nāma) và chuyển động của bàn chân là Sắc (rūpa).  Do đó, thiền sinh sẽ nhận ra Danh và Sắc sanh khởi và hoại diệt trong mỗi khoảnh khắc.  Vào một khoảnh khắc là sự dở chân và tâm ghi nhận sự dở chân, và khoảnh khắc kế tiếp là chân bước tới và tâm ghi nhận sự bước tới…Điều này được hiểu như là có một cặp đôi danh sắc sanh khởi và hoại diệt vào mỗi khoảnh khắc.  Như vậy thiền sinh tiến đến sự nhận biết cặp đôi danh sắc xảy ra này vào mỗi khoảnh khắc ghi nhận nếu thiền sinh chú niệm một cách chặt chẽ.

 

Một điều nữa mà thiền sinh khám phá ra là vai trò của ý muốn ảnh hưởng đến mỗi động tác.  Họ sẽ nhận ra rằng sở dĩ họ dở chân bởi vì họ muốn như vậy, đưa chân tới vì muốn như vậy, để chân xuống vì muốn như vậy và nhấn chân trên mặt đất vì muốn như vậy.  Điều này có nghĩa là họ nhận ra ý muốn trước mỗi động tác của bàn chân.  Sau khi có ý muốn dở chân, sự dở chân xảy ra.  Thiền sinh có sự hiểu biết về điều kiện tính của những gì xảy ra là những động tác này tự chúng không thể sanh khởi được nếu không có những điều kiện.   Chúng không do thần linh hay quyền năng nào tạo ra hết và sẽ không xảy ra nếu không có nguyên nhân.  Cứ mỗi động tác đều có nguyên nhân hay điều kiện tạo thành và điều kiện đó là ý muốn có trước mỗi động tác.  Đây là một điều nữa mà thiền sinh sẽ khám phá được nếu họ theo dõi một cách chặt chẽ.

 

Khi thiền sinh hiểu được điều kiện tính của tất cả các chuyển động và những chuyển động này không do thần linh tạo ra tức là họ hiểu chúng được sanh khởi bởi ý muốn.  Họ sẽ hiểu ý muốn là điều kiện khiến cho động tác sanh khởi.  Như vậy sự tương quan giữa cái tạo điều kiện và cái chịu điều kiện hay nhân và quả được tuệ tri.  Trên căn bản của tuệ giác này là danh và sắc không thể sanh khởi mà không có điều kiện, thiền sinh không còn nghi ngờ về danh và sắc nữa.  Và với sự vượt qua hoài nghi về danh sắc, thiền sinh được xem là đã đạt đến giai đoạn của vị Tiểu Tu Đà Hoàn.

 

Tu Đà Hoàn là vị thánh “Nhập Lưu” tức là một người đã đạt được tầng mức giác ngộ đầu tiên.  Vị “Tiểu Tư Đà Hoàn” không phải là bậc Nhập Lưu thực thụ nhưng được đảm bảo tái sanh vào cõi tốt lành như người hay trời.  Điều này có nghĩa là vị đó sẽ không còn đọa vào bốn khổ cảnh như địa ngục, súc sanh…Mức độ Tiểu Tu Đà Hoàn này có thể đạt được qua sự thiền hành bằng cách theo dõi chặt chẽ những động tác của bước đi.  Đây là lợi ích lớn lao của thiền hành.  Giai đoạn này không dễ đạt được nhưng một khi đã đến rồi thiền sinh có thể được đảm bảo là sẽ tái sanh vào các cảnh giới tốt lành trừ phi họ tụt xuống từ giai đọan này.

 

Khi thiền sinh hiểu được các hiện tượng danh sắc sanh khởi và hoại diệt trong từng khoảnh khắc, họ sẽ hiểu được sự vô thường của diễn trình dở chân và họ cũng hiểu luôn sự vô thường của tâm ghi nhận sự dở chân đó.  Sự hoại diệt xảy ra ngay sau sự sanh khởi là dấu hiệu hay đặc tính nhờ đó chúng ta hiểu một sự vật là vô thường.  Nếu chúng ta muốn xem thử một cái gì đó là vô thường hay thường, chúng ta hãy cố gắng thấy qua sức mạnh của thiền tập là vật đó có chịu chi phối bởi diễn trình sanh khởi và hoại diệt hay không. 

 

Nếu sự thiền tập đủ mạnh cho phép thấy được sự sanh khởi và hoại diệt của các hiện tượng, chúng ta có thể quyết định là các hiện tượng quan sát là vô thường.  Trong cách này thiền sinh thấy có sự dở chân và tâm ghi nhận động tác dở chân và rồi diễn trình này biến mất để nhường chỗ cho động tác đưa chân tới và tâm ghi nhận động tác đưa chân tới.  Các chuyển động sanh khởi rồi hoại diệt, sanh khởi rồi hoại diệt, và diễn trình này thiền sinh có thể tự mình thấu hiều mà không cần phải chấp nhận dựa vào sự tin tưởng từ một quyền lực bên ngoài hay căn cứ trên sự tường trình của người khác.

 

Khi thiền sinh thấy danh và sắc sanh khởi rồi hoại diệt, họ thấu hiểu danh sắc là vô thường.  Khi họ tuệ tri chúng vô thường, họ sẽ tuệ tri kế tiếp chúng là khổ hay bất toại nguyện bởi vì họ luôn luôn bị áo đảo bởi sự sanh diệt không ngừng.  Sau khi tuệ tri các đặc tánh vô thường và khổ của các hiện tượng, họ cũng nhận ra là không có ai có thể làm chủ các hiện tượng này.  Điều này có nghĩa là không có bản ngã hay linh hồn ra lệnh cho các hiện tượng được trường cửu.  Mọi hiện tượng chỉ sanh khởi và hoại diệt theo định luật thiên nhiên.  Hiểu như vậy, thiền sinh tuệ tri luôn đặc tánh thứ ba của các hiện tượng có điều kiện hay đặc tánh vô ngã tức là các hiện tượng không có bản ngã.  Một trong những ý nghĩa của vô ngã là không thể làm chủ có nghĩa là không có bất cứ gì như thực thể, linh hồn, quyền  lực làm chủ bản chất của mọi vật.  Đến lúc này thiền sinh hiểu được ba đặc tánh của tất cả các pháp hữu vi là vô thường, khổ, và vô ngã.  Tiếng Pali là anicca, dukkha, và anatta.

 

Thiền sinh hiểu được ba đặc tánh này bằng cách theo dõi chặt chẽ sự dở chân và tâm ghi nhận được sự dở chân đó.  Bằng sự chú tâm nơi chuyển động, thiền sinh thấy chúng sanh khởi và hoại diệt và kết quả là thấy đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã của các pháp hữu vi hay hiện tượng có điều kiện.

 

Bây giờ hãy khảo sát chi tiết những động tác của thiền hành.  Giả sử chúng ta chụp hình sự dở chân.  Giả sử thêm là thời gian của sư dở chân là một giây và máy hình có thể chụp được 36 lần trong một giây.   Sau khi chụp hình, nếu nhìn riêng rẽ từng tấm, chúng ta sẽ nhận thức rằng những gì chúng ta nghĩ là một sự dở chân thật ra gồm 36 chuyển động.  Hình ảnh trong mỗi bức hình hơi khác nhau và sự khác nhau rất ít đến nỗi chúng ta khó thấy được.  Chuyện gì xảy ra nếu máy hình có thể chụp 1,000 ngàn bức hình trong một giây.  Như vậy có 1,000 chuyển động trong một sự dở chân mặc dù những chuyển động hầu như không thể phân biệt được với nhau.  Nếu máy hình có thể chụp 1,000,000 tấm mỗi giây, bây giờ chưa được nhưng tương lai có thể xảy ra, thì sẽ có 1,000,000 chuyển động trong cái mà chúng ta nghĩ chỉ là một chuyển động duy nhất.

 

Sự nỗ lực của chúng ta trong thiền hành là thấy các chuyển động càng chặt chẽ như là máy hình chụp từng tấm một.  Chúng ta cũng muốn theo dõi tâm ghi nhận và ý muốn trước mỗi động tác.  Chúng ta sẽ khâm phục tuệ lực minh sát của Đức Phật mà nhờ đó Ngài đã thấy tất cả các chuyển động.    Khi chúng ta dùng chữ “thấy” hay “theo dõi” cho trường hợp chúng ta, chúng ta muốn nói là thấy trực tiếp và suy diễn.  Chúng ta sẽ không thể thấy tất cả một triệu chuyển động như Đức Phật đã thấy.

 

Trước khi thiền hành, có lẽ thiền sinh đã nghĩ rằng mỗi bước chỉ là một chuyển động.  Sau khi theo dõi chuyển động, họ thấy ít nhất có bốn động tác và nếu đi sâu vào họ sẽ hiểu là ngay cả một trong những động tác này có hàng triệu chuyển động cực nhỏ.  Họ thấy danh và sắc hay tâm và thân sanh khởi và hoại diệt hay vô thường.  Bằng cảm nhận bình thường, chúng ta không thấy được đặc tánh vô thường của mọi hiện tượng vì đặc tánh này thường bị che kín bởi ảo tưởng về sự liên tục.  Chúng ta nghĩ chỉ thấy một sự chuyển động liên tục nhưng nếu quan sát kỹ càng chúng ta sẽ thấy ảo tưởng về sự liên tục này có thể bị phá vỡ.  Nó có thể bị phá vỡ bằng sự theo dõi trực tiếp các hiện tượng vật chất từng cái, từng phần một khi chúng sanh khởi và hoại diệt.  Giá trị của thiền nằm ngay trong khả năng lấy đi tấm màn của sự liên tục để khám phá bản chất vô thường đích thực.  Thiền sinh có thể khám phá được bản chất vô thường một cách trực tiếp từ chính nỗ lực của mình.

 

Sau khi nhận thức được mọi vật gồm nhiều thành tố, xảy ra riêng rẽ và theo dõi những thành phần này từng cái một, thiền sinh sẽ nhận thức được không có gì trên cõi đời đáng để ao ước bám níu vào.  Nếu chúng ta thấy một cái gì đó mà trước đây ta nghĩ là đẹp bây giờ khuyết trống, suy đồi và tan rã chúng ta sẽ không còn thích thú nữa.  Ví dụ, chúng ta thấy một bức tranh sơn dầu đẹp.  Chúng ta nghĩ sơn vẽ, khung vải là một toàn thể, một khối đặc chắc.  Nhưng nếu chúng ta đặt bức tranh dưới kính hiển vi cực mạnh, chúng ta sẽ thấy bức tranh không phải đặc chắc, nó có nhiều lỗ hỗng hay khoảng trống.  Sau khi thấy bức tranh như vậy, chúng ta sẽ hết thích thú và không còn dính mắc vào nó nữa.  Các nhà vật lý học hiện đại biết rõ điều này.  Họ quan sát vật chất với những dụng cụ cực mạnh và thấy chúng chỉ là những ba động hạt tử và năng lượng không ngừng thay đổi.  Không có một thực thể nào trong chúng cả.  Với kinh nghiệm sự vô thường bất tận này, thiền sinh hiểu rằng chẳng có gì đáng để ham muốn dính mắc trong thế giới hiện tượng này.

 

Bây giờ chúng ta có thể hiểu các lý do để hành thiền.  Chúng ta hành thiền bởi vì chúng ta muốn cởi bỏ sự dính mắc và thèm muốn sự vật.  Bằng tuệ tri ba đặc tính của sự hiện hữu - vô thường, khổ và vô ngã của các hiện tượng - chúng ta loại bỏ sự thèm muốn.  Chúng ta muốn loại bỏ sự thèm muốn vì chúng ta không muốn đau khổ.  Bao lâu còn thèm muốn và dính mắc, bấy lâu còn khổ đau.  Nếu chúng ta không muốn đau khổ, chúng ta phải loại trừ sự thèm muốn và dính mắc hay chấp thủ.  Chúng ta phải hiểu rằng vạn vật chỉ là danh và sắc sanh khởi và hoại diệt, không có bản ngã.  Một khi thực chứng được điều này, chúng ta sẽ có thể loại bỏ được tâm dính mắc vào mọi vật.  Bao lâu chúng ta chưa thực chứng điều này, cho dù đọc bao nhiêu sách, nghe nhiều pháp thoại hoặc đàm luận nhằm loại trừ chấp thủ, chúng ta sẽ không thể nào thực sự loại bỏ chấp thủ được.  Điều thiết yếu là kinh nghiệm trực tiếp các pháp hữu vi đều có ba đặc tánh vô thường, khổ, và vô ngã.

 

Do đó, chúng ta phải chú niệm khi đi cũng như ngồi hay nằm xuống.  Sư không muốn nói chỉ thiền hành không cũng cho chúng ta sự thực chứng tối hậu và khả năng loại trừ hoàn toàn chấp thủ.  Tuy nhiên, thiền hành cũng giá trị như ngồi thiền hay bất cứ pháp hành Thiền Minh Sát nào khác.  Thiền hành đưa tới sự phát triển tâm linh.  Nó cũng hiệu nghiệm như sự quán niệm hơi thở hoặc sự theo dõi phồng xẹp của bụng.  Đây là một phương tiện rất hiệu năng để giúp chúng ta loại trừ phiền não trong tâm.  Thiền hành giúp chúng ta tuệ tri bản chất của mọi vật.  Do đó, chúng ta nên thiền hành một cách tinh tấn như khi thực tập ngồi thiền hoặc các pháp hành thiền khác. 

 

Sư cầu chúc quí vị có thể đạt được sự thanh tịnh toàn vẹn ngay trong kiếp sống này bằng sự thực tập chánh niệm qua tất cả các tư thế kể cả thiền hành.

v3 (1).png

Tathagata Meditation Center

bottom of page